Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày

MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài 1.1. Người tày có tên gọi khác là Thổ; Dân số: 1,5 triệu người; Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí; Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1. Người tày có tên gọi khác là Thổ;  Dân số: 1,5 triệu người; Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí; Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai); Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc Tày thuộc các tỉnh miền núi phái Bắc Việt Nam như: Lạng Sơn,Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái…Và một số Tỉnh ở Phía Nam như: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai… cũng có người Tày cư trú, nhưng họ là cư dân mới chuyển vào trong thời gian gần đây. Như vậy, có thể nói khu vực Đông bắc bộ được coi là nơi sinh tụ lâu đời của người Tày trong đó Lạng Sơn (có 259.496 người) và Cao Bằng (có 207.805 người) đây là hai tỉnh có số người Tày cư trú đông đúc nhất. 
Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí quan trọng và được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ. Song để biểu thị các khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học…thì tiếng Tày phải vay mượn từ tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng phổ thông là tiếng Việt. Sự vay mượn được hình thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật, điều đó đã làm cho tiếng Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trở thành công cụ giao tiếp trong cộng đồng cư dân người Tày xưa và nay. Vì vậy , việc nghiên cứu tục ngữ dân tộc Tày trước hết là để hiểu rõ hơn về văn hóa Tày, góp phần giới thiệu và tôn vinh nền văn hóa của dân tộc Tày.
1.2.  Tục ngữ, thành ngữ Tày có thể coi là bộ bách khoa thư về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của cộng đồng dân tộc Tày, là bộ phận quan trọng cuả nền văn hóa Tày. Vì thế thành ngữ, tục ngữ Tày nói riêng cũng như thành ngữ, tục ngữ Tày nói chung đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội như: Văn hóa, dân tộc học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ học. Hiện nay việc nghiên cứu về tục ngữ, thành ngữ đã đạt nhiều thành tựu lớn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về tục ngữ, thành ngữ của các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Tày còn ít. Cụ thể, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày. Vì vậy có thể cho rằng việc tìm hiểu về trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ  Tày là góp phần khai thác vốn văn hóa của dân tộc Tày ở một bình diện mới, làm rõ thêm nét đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Tày.
1.3. Là người con của dân tộc Tày, sinh ra lớn lên và trưởng thành từ mảnh đất mà phần đa là người Tày cùng sinh sống, tác giả luận văn thiết tha với tiếng nói và văn hóa của dân tộc mình, muốn bày tỏ tình yêu dân tộc và tiếng mẹ đẻ của mình bằng việc tìm hiểu, nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ Tày nơi chứa đựng nhiều giá trị độc đáo, mang đậm bản sắc riêng của dân tộc. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng hi vọng rằng, kết quả nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ Tày sẽ giúp cho giáo viên và học sinh ở miền núi hiểu rõ hơn về ngôn ngữ của dân tộc Tày, đồng thời có thể vận dụng, học tập cách tư duy, cách diễn đạt mang bản sắc riêng của dân tộc Tày.
Với lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày”
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Việc sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu tục ngữ nói chung
Ở Việt Nam, trước thế kỷ XIX, các tác phẩm văn học chữ Hán và chữ Nôm đã có ít nhiều dấu vết của các tư tưởng dân gian vốn là nội dung của các câu tục ngữ. Nguyễn Trãi là người đầu tiên sử dụng phổ biến tục ngữ dân gian vào sáng tác của mình, bài thơ số 21 trong tập “Bảo kính cảnh giới” là một tiêu biểu: “Ở bầu thì dáng ắt nên tròn, xấu tốt đều thì rắp khuôn. Ở đáng thấp thì nên dáng thấp, đen gần mực, đỏ gần  son”. Tiếp đến phải kể đến các sáng tác chữ Nôm như “Hồng Đức quốc âm thi tập” của Lê Thánh Tông (thế kỷ thứ XV), “Bạch vân quốc ngữ thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (TK XVIII, XIX). Trong các tác phẩm này, các tác gải đã sử dụng khá nhiều câu tục ngữ.
Từ TK XIX đến đầu TK XX đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về tục ngữ như: Cuốn “Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn” xuất bản năm 1897 của Huỳnh Tịnh Của, “Tục ngữ và cách ngôn” (1920) của Hàn Thái Dương, “An Nam tục ngữ ” (1933) của Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia,“Phong giao, ca dao, phương ngôn tục ngữ” (1936)của Nguyễn văn Chiểu. Nhìn chung nội dung của các công trình trên chủ yếu sưu tầm tổng hợp gồm cả ca dao, thành ngữ, bước đầu đã có phân tích và bình luậnSau cách mạng tháng 8 (1945), có sự xuất hiện khá nhiều các công trình nghiên cứu về tục ngữ Việt nam. Cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca” của Vũ Phan, xuất bản lần đầu năm 1956, tái bản bổ sung 1071, 1972. Cuốn này tác giả Vũ Ngọc Phan đã trình bày tách biệt phần tục ngữ và ca dao, đây là điểm mới so với trước đây. Tác giả Vũ Ngọc Phan đã phân biệt giữa thành ngữ, tục ngữ  cụ thể như sau: “Tục ngữ là một câu, tự nó diễn đạt chọn ven một ý., còn thành ngữ là một phần câu có sẵn, là một bộ phận của câu mà nhiều người quen dùng, nhưng tự nó không diễn đạt trọn vẹn” (50, 31). Nhiều tác giả đã có  công trình nghiên cứu về tục ngữ như: Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, khái niệm về tục ngữ, thành ngữ được phân tích kỹ hơn:
Trước hết, phân biệt về mặt nghĩa của mỗi thể loại. Tục ngữ là những lời, những câu khuyên răn về đối nhân xử thế, là những bài học kinh nghiệm về lao động sản xuất, về nhận thức giới tự nhiên và đời sống xã hội bằng những câu xúc tích, ngắn gọn. Tục ngữ là những phán đoán. Thành ngữ là sự miêu tả những hiện tượng tự nhiên và xã hội, là những khái niệm, những đơn vị nghĩa có sẵn, được cô đúc chặt chẽ. Thành ngữ có nghĩa bóng bẩy.
Thứ hai, phân biệt về mặt kết cấu và chức năng ngữ pháp. Thành ngữ là cụm từ cố định, là mệnh đề nằm trong câu. Trong tục ngữ có cả thành ngữ. Có khi thành ngữ được dùng tương đương như một từ. Thành ngữ có chức năng định danh. Tục ngữ là một câu có ý trọn vẹn và hoàn chỉnh, có chức năng thông báo.
Cũng có thể nói thêm, quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa các hình thức khái niệm (thành ngữ) và phán đoán (tục ngữ), tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội, phản ánh lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân dân, lối nói của dân tộc. Thành ngữ thuộc hiện tượng ngôn ngữ, là công cụ giao tế chung của cộng đồng dân tộc.
 đều thấy trong tục ngữ có cả thành ngữ. Nhưng xét cho kỹ, đối tượng của hai thể loại có khác nhau vì nhu cầu nghiên cứu, phân tích. Tục ngữ thuộc khoa nghiên cứu văn học dân gian, thành ngữ thuộc ngành ngôn ngữ học.
Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả (Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri), là công trình nghiên cứu công phu về tục ngữ Việt Nam, Ở công trình này, tác giả đưa ra quan điểm nghiên cứu công phu về tục ngữ trên hai bình diện, đó là nghiên cứu tục ngữ về mặt xã hội học, túc là nghiên cứu tục ngữ với tư cách là một hiện tượng ý thức xã hội và nghiên cứu tục ngữ ở bình diện là một hiện tượng ngôn ngữ , tức là nghiên cứu tục ngữ với tư cách là một đơn vị thông báo có tính nghệ thuật. Từ đó tác giả khẳng định kho tàng tục ngữ Việt Nam “Là một văn liệu quý giá do nhân dân lao động sáng tạo và tích lũy từ hàng nghìn năm nay, trong đó kết tinh được những đặc điểm cỏ bản nhất của  lối nói dân gian, lối nói dân tộc ” (19,41).
Những năm 90 trở về đây, xuất hiện nhiều cuốn tục ngữ của nhiều tác giả như: Mã Giang Lân, Châu Nhiên Khanh, hay nhóm tác giả Nguyễn Cừ, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An, Các công trình của các tác giả này chủ yếu là sưu tầm, biên soạn , tổng hợp và giới thiệu các công trình nghiên cứu Việt Nam. Bên cạnh đó có sự xuất hiện nhiều bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu về tục ngữ Việt Nam. Đây chính là cơ sở lí luận, nguồn tư liệu quý giá, là tiền đề khoa học cho việc nghiên cứu tục ngữ các dân tộc khác trên đát nước Việt Nam, trong đó có tục ngữ Tày.
2.2 Việc sưu tầm, nghiên cứu tục ngữ, thành ngữ Tày
Tục ngữ Tày đã thể hiện được lối nói của người dân Tày, đây là lối nói có hỉnh ảnh, có hình tượng gắn liền với tư duy của người Tày và là văn hóa của người Tày, Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến giá trị của tục ngữ Tày.
Đầu tiên phải kể đến cuốn“Tục ngữ Tày- Nùng” (1972), (nhiều tác giả) đã liệt kê được một số các đơn vị tục ngữ Tày- Nùng đáng kể, Đến năm 1984, tác giả Hà Văn Thư, Nguyên Văn Lô, viết cuốn “Văn hóa Tày- Nùng”. Trong công trình này các tác giả đã sưu tầm, tổng hợp và giới thiệu 34 câu tục ngữ về ứng xử của người Tày với môi trường tự nhiên và xã hội. Trong cuốn “Văn hóa dân gian Cao Bằng” ở trang 13 bài viết về “Bình diện Folklore vùng Cao Bằng”  tác giả Hoàng Triều Ân có đề cập đến tục ngữ Tày với mục đích giới thiệu chung và dẫn 06 câu tục ngữ Tày về các khía cạnh khác nhau. Nói về đạo lí làm người có câu “Giú ngay kin bấu lẹo, gổt ghẹo kin bấu đo” (Ngay thẳng ăn chẳng hết, dối trá ăn chẳng no); “Tua nẩu ấu tằng khương” ( Một con cá ươn thối cả giỏ), “Tong kheo tèo tằng bản” (Lót lá xanh chạy quanh làng bản), nhận thức về sức lao động cử hai bàn tay “Của tin mừng nặm bó, của vỏ mẻ nặm nòng” (Của bàn tay nước nguồn của bố mẹ nước lũ). Năm 1996, Tác giả Triều Ân, Hoàng Quyết viết cuốn “Từ điển thành ngữ- Tục ngữ Dân tộc Tày”, NXB Văn hóa Dân tộc. Có thể thấy rằng, cuốn sách này là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, giúp cho người nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày. Vì đây là cuốn từ điển nên chủ yếu tác giả tổng hợp đưa ra cách giải nghĩa tục ngữ, thành ngữ dân tộc Tày với số lượng đơn vị tục ngữ Tày khá phong phú. Cuốn “Địa chí Cao Bằng” (2000), Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng,  NXB Chính trị Quốc gia, ở chương V phần Văn học dân gian (539) có trích 29 câu tục ngữ Tày trong mảng văn học dân gian Tày. Cuốn “Văn hóa dân gian Tày” (2002), Hoàng  Ngọc La (chủ biên), Sở Văn hóa thông tin Thái Nguyên, có nhắc đến tục ngữ Tày là một thể loại trung gian nằm trong hệ thống Văn học dân gian của dân tộc Tày. Mới đây nhất là cuốn “Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số việt Nam” Tập 1 xuất bản năm 2007, tập 2 xuất bản 2008, Viện nghiên cứu văn hóa, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách đã tổng hợp được số lượng rất phong phú về tục ngữ các dân tộc nói chung trong đó có khoảng hơn 2.000 câu tục ngữ Tày. Đây thực sự là nguồn tư liệu quý và mới mẻ giúp cho người nghiên cứu có điều kiện để đi sâu nghiên cứu mọi mặt của tục ngữ Tày. Ngoài ra còn có thêm nguồn tư liệu nữa là Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Phùng Thị Ngọc về đề tài “Trường nghĩa động vật trong tục ngữ của người Tày” (2013) Đại học sư phạm Hà Nội.
Điểm lại quá trình nghiên cứu, sư tầm tục ngữ Tày từ những năm 70 của thể kỷ trước trở về đây, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề đáng chú ý sau:
Một là:  Tục ngữ Tày với  tư cách là đơn vị của ngôn ngữ Tày, là một loại hình trong kho tàng văn chương truyền khẩu của người Tày. Đã từ lâu tục ngữ Tày đã trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu về tục ngữ Tày được công bố. Đây là tài sản có giá trị của một cộng đồng dân tộc, là nguồn tư liệu vô cùng quý hiếm, rất hữu ích cho việc nghiên cứu tiếp theo về tục ngữ Tày.
Hai là: Những công trình nghiên cứu trên phần lớn tập trung sưu tầm, giói thiệu về các đơn vị tục ngữ Tày, trong đó đã có công trình nghiên cứu tục ngữ Tày về khía cạnh văn hóa ứng xử của người Tày trong quan hệ gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu tục ngữ Tày về phương diện ngôn ngữ.
Ba là: Dù đã được nhiều tác giả quan tâm, nhưng ý nghĩa của trường nghĩa các bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày vẫn chưa được chú ý một cách thích đáng. Tìm hiểu, nghiên cứu về trường nghĩa các bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày chính là để khám phá và giới thiệu về thành ngữ, tục ngữ Tày một cách toàn diện hơn, để mọi người thấy rõ thành ngữ, tục ngữ Tày là nơi tinh túy, đúc kết kinh nghiệm và khả năng sáng tạo trong tư duy của người Tày, đồng thời thấy được tài năng của tác giả dân gian trong quá trình sáng tác kho tàng kho tàng văn hóa phi vật thể này.
Chính vì thế đề tài “Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày” không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc thiểu số mà còn có ý nghĩa thiết thực cho việc giới thiệu và góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát triển kho tàng về văn hóa vô giá của người Tày.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm đạt tới mục đích sau:
Tìm hiểu về trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, Tục ngữ Tày và ý nghĩa của chúng để làm sáng tỏ đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa độc đáo của dân tộc Tày, từ đó góp phần hiểu biết  phong phú hơn về ngôn ngữ,  văn hóa các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam. 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và xác định được cơ sở lí luận : quan niệm về thành ngữ, tục ngữ, khái niệm trường nghĩa trong ngôn ngữ học 
 - Khảo sát, thống kê, phân loại trường nghĩa các bộ phận cơ thể người trong các câu thành ngữ, tục ngữ Tày.
- Đối chiếu phần dịch nghĩa tiếng Việt với nghĩa trong ngôn ngữ dân tộc Tày của các câu thành ngữ, tục ngữ đã sưu tầm, tổng hợp được, để đạt tới cách hiểu nghĩa của các đơn vị thành ngữ, tục ngữ Tày một cách chân thực và chuẩn xác nhất từ đó nhận ra đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc Tày
- Rút ra ý nghĩa biểu trưng của trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày, góp phần khẳng định đặc trưng văn hóa của dân tộc Tày.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu dựa vào cuốn “Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số việt Nam” (2008, Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội) và cuốn “Từ điển thành ngữ- Tục ngữ Dân tộc Tày” (1996, Tác giả Triều Ân, Hoàng Quyết , NXB Văn hóa Dân tộc). Ngoài ra còn có tư liệu thống kê tục ngữ, thành ngữ Tày qua tìm hiểu một số gia đình ở Cao Bằng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Thủ pháp thống kê phân loại được sử dụng trong quá trình thống kê và thu thập tư liệu : Thu thập toàn bộ các đơn vị thành ngữ, tục ngữ Tày có từ ngữ bộ phận cơ thể người 
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để làm sáng tỏ những đặc điểm về cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của thành ngữ, tục ngữ Tày so với thành ngữ, tục ngữ Việt.
5.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, và các thủ pháp quy nạp, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng để tìm ra ý nghĩa của các từ ngữ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày và rút ra những kết luận cần thiết trong quá trình nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ Tày.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở tư liệu thực tế, luận văn góp phần làm sáng tỏ lý thuyết về trường nghĩa, tri thức về thành ngữ, tục ngữ, đặc trưng văn hóa dân tộc tiềm ẩn trong ngôn ngữ nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần thúc đẩy việc sưu tầm và nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ Tày trong kho tục ngữ chung của các dân tộc thiểu số ở Việt nam. Bên cạnh đó luận văn còn là nguồn tư liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh có nhu cầu tìm hiểu thành ngữ, tục ngữ Tày và văn hóa Tày.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tư liệu tham khảo,nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Xác lập trường nghĩa từ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày.
Chương 3: Ý nghĩa biểu trưng của tục ngữ, thành ngữ Tày có chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa bộ phận cơ thể người.
 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết về trường nghĩa
1.1.1. Khái niệm về trường nghĩa
1.1.2. Tiêu chí và cách phân loại
1.1.3. Các loại trường nghĩa
1.1.3.1. Trường nghĩa dọc
1.1.3.1.1. Trường nghĩa biểu vật
1.1.3.1.2. Trường nghĩa biểu niệm
1.1.3.2. Trường nghĩa ngang (Trường nghĩa tuyến tính)
1.1.3.3. Trường liên tưởng
1.1.4. Hiện tưởng chuyển trường
1.2. Quan niệm về thành ngữ, tục ngữ
1.2.1. Khái quát về thành ngữ, tục ngữ
1.2.2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
1.2.3. Phân biệt thành ngữ, tục ngữ với ca dao
1.2.4. Thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày
1.2.4.1. Thành ngữ, tục ngữ Tày trong môi trường địa lý tự nhiên, lịch sử và văn hóa của dân tộc Tày ở Việt Nam
1.2.4.1.1. Trong môi trường địa lý tự nhiên
1.2.4.1.2.  Trong tiến trình lịch sử
1.2.4.1.3. Trong môi trường  văn hóa
1.3 Vấn đề nghĩa biểu trưng
1.3.1. Khái niệm nghĩa biểu trưng
1.3.2. Nghĩa biểu trưng trong thành ngữ, tục ngữ Tày
 
                               
                                   Tiểu kết chương 1
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CHƯƠNG 2: XÁC LẬP TRƯỜNG NGHĨA “ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI” TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TÀY
 
2.1. Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong trường nghĩa người  
2.1.1.Khái quát về trường nghĩa người và các tiểu trường
2.1.2Trường nghĩa bộ phận cơ thể người 
2.2.. Quan niệm phân loại bộ phận cơ thể người trong cách hiểu thông thường 
      2.2.1.Phân biệt đầu / mình / tứ chi     ; 
     2.2.2 Phân biệt trong /ngoài ( vd : lòng, ruột... / mặt, tay...)
    2.2.3 Phân biệt theo cấp độ lớn/nhỏ, cao/ thấp : vd  Tay => Bàn tay=> Ngón=>Đốt, móng  
2.3. Trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày 
2.3.1.Thống kê, phân loại trường nghĩa bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày
2.3,2. Tiểu trường tên gọi bộ phận cơ thể người
2.3.2.Tiểu trường chỉ hoạt động của các bộ phận cơ thể người trong thành ngữ, tục ngữ Tày
2.3.4 Nhận xét về sự đồng nhất và khác biệt giữa tiếng Tày và tiếng phổ thông trong trường nghĩa bộ phận cơ thể người 
 
 
 
Tiểu kết chương 2
                    
 
 
 
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TÀY CÓ CHỨA CÁC TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA BỘ PHẬN 
CƠ THỂ NGƯỜI
3.1. Những thành ngữ, tục ngữ không có nghĩa biểu trưng
3.2. Những thành ngữ, tục ngữ có nghĩa biểu trưng
3.2.1. Biểu trưng cho tác dụng của của con người đối với đời sống 
3.2.1.1. Tác dụng tốt
3.2.1.2. Tác dụng xấu
3.2.2. Biểu trưng có ý nghĩa tốt đẹp
3.2.3. Biểu trưng cho những thói xấu
3.2.4. Biểu trưng cho sự phân chia giàu nghèo trong xã hội
                       
Tiểu kết chương 3
 
 
 
 
 
KẾT LUẬN
 
 
 
 
 
 
 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO BƯỚC ĐẦU 
Triều Ân, Ca dao Tày nùng, NXB Văn hóa Dân tộc, 1994
Triều Ân, Tục cưới xin người Tày, NXB Văn hóa Dân tộc, 1994
Triều Ân, Từ điển thành ngữ, tục ngữ Tày, NXB Văn hóa Dân tộc, 1996
Lại Nguyên Ân, Từ điển văn hoạc Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999
Lai Nguyên Ân, Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, 2004
Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2008
Nguyễn Nhã Bản, Đặc trưng của cấu trúc- ngữ nghĩa của thành ngữ- tục ngữ trong ca dao, NXB văn hóa Dân tộc, 2005.
Đỗ Hữu Châu, cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Giáo dục, 1998
Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Đại cương ngôn ngữ học tập 1, NXB Giáo dục, 2007.
Lê Dân, Tục ngữ và hàm ngôn, tạp chí ngôn ngữ và đời sống số 5, 2001.
Nguyễn Đức Dân, ngữ nghĩa thành ngữ, tục ngữ sự vận dụng, tạp chí ngôn ngữ và đời sống số 3,1986.
 Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng việt, NXB Đại học, trung học chuyên nghiệp, 1985.


Tin Tức Liên Quan

    HỔ TRỢ TRỰC TUYẾN

  • VIẾT LUẬN VĂN, LÀM LUẬN VĂN THUÊ GIÁ RẺ 0942.031.664
  • VIẾT LUẬN VĂN, LÀM LUẬN VĂN THUÊ GIÁ RẺ

    hotroluanvan2003@gmail.com

chia sẽ facebook chia sẽ google chia sẽ likedin chia sẽ twitter chia sẽ twitter chia sẽ zingme