Bi kịch cá nhân trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

Nói đến cảm hứng bi kịch là nói đến cái nhìn về những bất hạnh nói chung của con người trong cuộc sống. (Hỗ trợ luận văn)

Bi kịch là một trong những biểu hiện tất yếu của cuộc sống trong mọi thời đại và nó sẽ là cảm hứng thường xuyên của một nền văn học tiến bộ luôn lấy con người làm đối tượng trung tâm trong sự phát triển bình thường của văn học. Trong văn chương Việt Nam 1945 -1975, cảm hứng bi kịch dường như không tồn tại, và điều này có nguyên do của nó, thiết nghĩ không cần phải nhắc lại trong luận văn này. Sau 1975, và nhất là sau 1986, khi cuộc sống trở lại nhịp điệu bình thường, cảm hứng bi kịch trở thành một trong những cảm hứng nổi bật trong văn học nói chung và trong tiểu tuyết nói riêng.

Sống trong xã hội thời bình họ có điều kiện nhìn lại quá khứ. Chiến tranh được nói đến như những đau thương mất mát, những người lính ra đi là đã dành cả phần đời tươi đẹp nhất của mình cống hiến cho cuộc chiến tranh chung. Người lính trong tư thế trở về lại mang “nỗi buồn được sống sót”. Họ cảm thấy mình “bị bắn ra khỏi lề đường” (Ăn mày dĩ vãng), “bị mắc kẹt lại giữa cõi đời này” (Nỗi buồn chiến tranh). Họ cô độc và chẳng có gì trong chuỗi ngày bất tận, nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến phát ốm” của hiện tại. Họ không có gì bấu víu ngoài “mảnh quá khứ phập phồng đập vào trong lồng ngực ọp ẹp”.

Họ hụt hẫng, đau xót và phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của mọi người đối với cuộc chiến mà thế hệ họ đã “quăng mình vào”: “Chiến tranh mới đó, hơn chục năm chứ nhiều nhặn gì đâu mà sao cả người ngoài lần người trong cuộc đều chóng vánh quên đi quá thể vậy? Sao… nhắc đến mọi kỷ niệm đau thương lại ráo hoảnh như nhắc đến cuộc chiến tranh của người khác, của quốc gia khác?” (Ăn mày dĩ vãng). Và trong sự hụt hẫng ấy, cái quá khứ mà thiên hạ đang quên đi, cố quên đi lại không thôi quấn lấy họ, ám ảnh họ như thể nó là người bạn đồng hành duy nhất cùng họ vượt nốt chặng đời còn lại. Nếu Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) còn giữ được chút tỉnh táo để điều chỉnh những hồi tưởng của mình cho mạch lạc thì Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) hoàn toàn rơi vào trạng thái bấn loạn, rối bời, triền miên trong mộng mị, vô thức. Sẽ là bội bạc, hay thiếu văn hóa, hay là điều gì thê thảm hơn khi hình tượng người lính đẹp đẽ khi xưa đã nhanh chóng bị đồng loại vấy bùn, rẻ rúng? Cái gì đã nhanh chóng đẩy người lính trượt từ nấc thang cao vọi: anh giải phóng quân, xuống nấc trung tính: người lính, và… “dưới đáy”: lính tráng, như một hình dung từ mỉa mai cay độc nhất? Là tại họ hay tại cộng đồng họ?... Vì vậy, chiến tranh đã gắn với người lính như một “thân phận”. Trong Nỗi buồn chiến tranh, hai chữ “thân phận” luôn luôn ám ảnh tâm trí Kiên. Trước khi bước vào cuộc chiến, trong giờ khắc ngắn ngủi bên Phương để thật sự chia lìa, anh cảm thấy “sự bất lực và nhỏ bé của thân phận, của nỗi niềm riêng tư của một hai con người giữa biển đời”. Sau chiến tranh nhìn lại, anh càng thấm thía “thân phận con sâu cái kiến” của người lính trước “gánh nặng bạo lực”. Chiến tranh là “nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời anh” và khi đi tìm ý nghĩa thực của đời mình, Kiên thấm thía một điều rằng: mình và bao đồng đội đều là nạn nhân của cuộc chiến, dù kẻ mất người còn nhưng “mỗi người đều bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng”. Sự sống sót của Kiên xét đến cùng là một sự chết dần về tinh thần. Đã có lúc anh tin rằng mình đã phục sinh, “nhưng là một sự phục sinh lùi về sâu xa. Sẽ mỗi ngày một lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài tái hiện” và cuộc đời mới của anh “chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh”.

Đối diện với cuộc sống mới, con người luôn mang trong mình cảm giác cô đơn, lạc lõng. Nếu như tướng Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp lạc lõng, cô độc ngay trong ngôi nhà của mình thì Nguyễn Vạn trong Bến không chồng cảm thấy cô đơn, lẻ loi trong dòng tộc, họ hàng mình. Anh bị những người trong họ rẻ rúng, họ định cho Vạn về ở từ đường chỉ vì sợ dư luận xã hội. “Tôi cũng định thế - Nguyễn Khiên nói - chả lẽ để anh ra ở đình Đông, e làng xóm chê cười cả họ nhà mình. Dù sao anh ấy cũng là người vẻ vang nhất làng Đông”. [1;27]. “Anh kém tính bỏ mẹ! Ai chẳng biết thằng Vạn có công, công lao của nó đối với dân với nước thì để cho dân cho nước lo nhà cho nó. Nhà Vạn xưa nay đóng góp chó gì cho họ Nguyễn” [1;27]. Ấy đấy, sự lãnh đạm của họ tộc khiến Nguyễn Vạn đã cô độc càng cô độc hơn. Tuổi trẻ cùng với những khát vọng bỏ lại nơi chiến trường, sự hy sinh cả đời của Nguyễn Vạn giờ được đền đáp bằng cái mác: Người vẻ vang nhất làng Đông.

          Bi kịch lớn nhất xâu xé tâm hồn Nguyễn Vạn là nỗi đau tinh thần - sự kìm nén bản năng khi tự khước từ tình cảm của mình đối với chị Nhân. Cả đời Nguyễn Vạn đã dành cho chiến tranh vì thế tình cảm cá nhân, riêng tư là một thứ gì đó rất xa xỉ đối với anh. “Cả đời Vạn đã có một mối tình nào đâu mà biết nỗi buồn và niềm vui lạc thú của tình yêu” [1;221]. Hy sinh hạnh phúc riêng tư để phục vụ quê hương đất nước là việc làm rất đỗi bình thường, điều bất thường ở đây là khói lửa chiến tranh đã lùi xa nhưng Nguyễn Vạn vẫn không chịu trải lòng ra để đón nhận những tình cảm thiêng liêng mà thượng đế ban tặng cho con người, tại sao như thế? Phải chăng khói lửa chiến tranh đã thui chột ngọn lửa tình trong tâm hồn Vạn? Không! Khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc vẫn cháy âm ỉ trong lòng Nguyễn Vạn. Chẳng phải anh đã thừa nhận mình có tình cảm với chị Nhân đó sao. “Hạnh ơi cháu không hiểu đâu - Vạn run run đưa tay nắm lấy bàn tay con Hạnh - Chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu” [1;70]. Một tình cảm đẹp, nhân bản, nhân văn thế vì sao anh phải chối bỏ? Lí tưởng của một chiến binh chiến thắng Điện Biên không cho phép anh làm như thế? Đúng nhưng chưa đủ. Cảm thấy có lỗi với người đã khuất - chồng chị Nhân - người bạn chiến đấu của mình? Chưa hẳn. Định kiến, dư luận xã hội cùng với lời nguyền của cụ tổ chính là sợi dây vô hình trói buộc tình cảm Vạn. Nghĩa cũng rơi vào bi kịch tương tự. Sao bao năm chiến đấu nơi chiến trường, ngày trở về thăm gia đình, gặp lại người vợ thân yêu nhưng Nghĩa lại không thể sinh hoạt vợ chồng, có nỗi đau, thất vọng nào hơn. “Hạnh ơi - Nghĩa nói - Anh không muốn em buồn. Anh không thể… Bác sĩ dặn anh còn phải kiêng chừng một năm nữa. Vết thương của anh chưa lành hẳn” [1;209]. Tuy nhiên mọi chuyện chưa dừng lại ở đó. Chiến tranh đã để lại di chứng trên cơ thể anh mà anh nào có biết. Sau nhiều lần sinh hoạt vợ chồng nhưng Hạnh vẫn không mang thai. Nỗi khát khao có con ngày càng cháy bỏng - cùng với sức ép của gia đình dòng tộc khiến Nghĩa vô cùng rối rắm. Không chịu nỗi sức ép từ gia đình, dòng họ Nghĩa, Hạnh đã chủ động làm đơn li hôn nhằm tạo điều kiện cho Nghĩa tìm đứa con nối dõi tông đường.

Sau chiến tranh con người nhận ra mình mất mát quá nhiều. Họ mất đi cả cái quyền được làm cha, làm mẹ. Họ rơi vào tình trạng khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng tinh thần.

Người phụ nữ phải sống trong chờ đợi, hi vọng, khi “quá lứa lỡ thì” nhiều người trong số họ trở thành quá phụ khi đương còn xuân, giấu kín đời mình và giấu kín những khao khát cháy bỏng chân chính là sứ mệnh đè nặng lên trái tim họ. Bởi “làm người đà bà góa có muôn ngàn nỗi nhục, buộc chặt thắt lưng, thắt chặt dây yếm không dám để thiên hạ nhìn thấy bầu vú còn tròn căng; trông thấy người đàn ông khỏe mạnh, gân guốc, má bỗng ửng đỏ, người nóng bừng, phải quay mặt đi tự xỉ vả mình”[5;tr.470]. Nỗi đau âm ỉ nhưng bỏng rát hơn khi bao nhiêu ngày tháng chờ đợi chồng về bỗng dưng cánh cửa hạnh phúc càng đóng chặt bởi người về mang nỗi đau không nói thành lời! Những người chồng mặc áo lính trở về với bến bờ hạnh phúc nơi làng quê của mình, nhưng lại không còn khả năng làm “đàn ông” để giúp người vợ trẻ làm tròn thiên chức của mình, uất nghẹt bởi đắng cay không nguôi.

Bi kịch hôn nhân, gia đình không dừng ở đó. Người phụ nữ đã hi sinh một đời để chờ chồng, chờ con từ chiến tranh trở về, nhưng cái mà họ nhận được chỉ là những mất mát đau thương. Những hy sinh, mất mát quá lớn đã ám ảnh chị Nhân (Bến không chồng) khiến chị lúc nào cũng sống trong những ảo giác nặng nề. “Đêm chị nằm mơ thấy cả ba bố con nó dẫn nhau về oán trách. Chị nhìn vào mắt chồng mắt hai đứa con cứ cháy rực lên - Chồng chị nói: “Mình là kẻ giết người, là mụ đàn bà độc ác! Tôi đã đi rồi sao mình không để các con được sống?” - Thằng Hà nói: “Bố và con đã đi rồi sao mẹ không để cho em con được sống?” - Thằng Hiệp nói: “Sao mẹ lại vui mừng khi con đi vào chỗ chết?”[1;228-229]. Lương tâm chị giằng xé, sự hy sinh của chồng con như từng lưỡi dao cứa vào lòng chị. Những vết hằn đó sẽ không bao giờ nhòa phai trong tâm trí chị. Đau thương, ám ảnh đó đã dẫn đến bi kịch của trạng thái tâm thần phân liệt, họ bị khủng hoảng về tinh thần. Đây là mất mát và là bi kịch không của riêng một người phụ nữ nào, những vết hằn đó sẽ không bao giờ nhòa phai trong tâm trí họ.

Từ bi kịch của những người trực tiếp chiến đấu nơi hòn tên mũi đạn cho đến nỗi khắc khoải chờ mong của những người mẹ, người vợ nơi quê nhà. Có thể nói Dương Hướng đã thể hiện rất thành công những nhân vật nữ trong Bến không chồng. Với bút pháp sắc sảo cùng với một tâm hồn nhạy cảm, Dương Hương đồng cảm đến sâu sắc nỗi đau của họ. Đức hy sinh, lòng vị tha đã làm nên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ Việt Nam nói chung, trong Bến không chồng của Dương Hướng nói riêng. Chung quy lại, có thể thấy rằng bi kịch của những người phụ nữ trong Bến không chồng là sau chiến tranh không một người phụ nữ nào có chồng. Họ rơi vào tình trạng quanh năm suốt tháng, quanh quẫn mãi nơi các làng quê chỉ còn lại phụ nữ và một số ít đàn ông tật nguyền, thiểu năng lực và ngớ ngẩn về trí tuệ: “Bây giờ bói cũng chả còn đứa con trai nào nhìn cho được mắt. Đứa nào không đui què, sứt môi, tai điếc thì mười bảy tuổi đã đòi khai thêm một tuổi để đi khám nghĩa vụ” [1;tr.139]. Tâm trạng chung của những người phụ nữ trải qua chiến tranh thường mang nỗi cô đơn khắc khoải vì phải sống “chốn giáp ranh giữa địa ngục và trần gian” và tiếp xúc với những người cùng giới với nhau trong công việc và sinh hoạt hằng ngày. Họ là những người phụ nữ trong Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Dòng sông mía (Đào Thắng), Thời xa vắng (Lê Lựu).

Đằng sau bi kịch về tinh thần ấy là gánh nặng vật chất phải lo toan. Cả một đời họ luôn lo lắng sao cho đủ cái ăn cái mặc. Cuộc sống sau chiến tranh còn nhiều bộn bề, khó khăn nối tiếp khó khăn họ phải gồng mình lên để gánh vác cuộc sống sao cho không uổng công những năm tháng hi sinh trong chiến tranh để bảo vệ đất nước.

Bi kịch cá nhân      

Tác phẩm dài 500 trang một số lượng không quá dài cũng không quá ngắn. Thành công của tác phẩm là đã đi sâu vào ngõ ngách của số phận con người, đặc biệt là số phận “con sâu cái kiến”. Khai thác ở con người từ đời sống riêng tư đến cuộc sống cơm áo. Họ là những số phận bị cơm áo đè sát đất, cả một đời chỉ lo sao đủ cơm ăn áo mặc. Thân phận những người dân thấp cổ bé họng, thân phận con sâu cái kiến làm suốt ngày mà không đủ ăn, còn bị o ép. Cuộc sống đã khốn khổ rồi còn bị kẻ trên o ép. Ví như chuyện hai cha con Thuyền nhặt được một miếng sắt nằm ở bờ sông. “Từ đó sinh ra làm nghề khuôn dép. Làm vất vả khổ sở nhưng cũng không yên thân. Ông phòng thuế đến cũng phải một bữa thịt chó. Ông công an đến, truy hỏi nguồn gốc của miếng thép làm khuôn dép. Như vậy là phải lo đút lót. Thật là khó sống, thân phận bị ép tứ bề, muốn sống tử tế cũng không được” [trang 322]. Số phận của những con người thuyền viên đã cho ta thấy bi kịch cá nhân, vì miếng cơm manh áo mà họ phải chịu đựng sống tủi, sống nhục. Lê Mây một ông thuyền trưởng già ngoài việc chuyên chăm nom sinh hoạt ăn uống, cơm áo, gạo tiền học cách buôn lậu và cung cúc phục vụ cánh hải quan trẻ chỉ bằng tuổi con ông. Họ xách mé láo xược ông ngay cả khi ông đang chìm trong giấc ngủ “tiếng đập cửa thình thình, tiếng “Mây ơi! Mây ơi” xách mé, láo xược. Chỉ với một câu phản đói lại chúng là ông đã bị chúng giết. Ông bị tịch thu sạch. Một thùng thuốc con nhộng. Năm chục cái Xây cô. Xà phòng thơm cũng thu hết, chỉ còn một “đố” và một cái bánh đang dùng dở. Ti vi, cát xét không còn cái nào. Cái quạt ghẻ cũng thu. Suốt đêm ông đứng vịn lan can nhìn dòng sông nước chảy. Ông nghĩ đến vợ con, đến món nợ ông vai để đi buôn đến bao giờ trả được” [trang 501]. Cùng chung cảnh ngộ với ông Mây là ông Đay, ông Thuấn thanh tra. “Nhưng ông Đay được nuôi béo rồi mới giết. Còn ông Mây và ông Thuấn thanh tra thì bị giết khi còn gầy” [trang 504].

Lê Mây vốn là một thuyền trưởng suốt đời cống hiến cho công việc nhưng khi về hưu thì trắng tay nợ đìa ra, sinh ra chán đời lại càng uống nhiều rượu. Tất cả lương cho hết vào rượu. Sống một đời vất vả khi về hưu lại trải qua những tháng ngày trong tình trạng dật dờ với quá khứ. Lê Mây sống là một con người tốt nhưng đến cuối đời ông lại làm khổ vợ con sống chỉ biết đến rượu giống như một Chí Phèo rồi chết đi một cách đột ngột. Không phải riêng Lê Mây mà nhiều người khác đi biển về cũng thọ rất ngắn: ông Thích, ông Đăng Việt, ông Lê Uy, Trần Ngọc Châu…Ông Quân còn sống nhưng tai biến mạch máu não, ăn đấy, ỉa đấy, liệt giường bao nhiêu năm nay muốn chết mà không chết được.

Bi kịch hạnh phúc cá nhân, gia đình. Chơn một anh chàng đánh cá, tính nết phổi bò. “Do điều kiện không về thăm gia đình thường xuyên được nên vợ anh ở quê đã mang bầu với người khác là một anh giáo - bạn học cùng lớp trường làng với anh ngày xưa” [trang 19].

Rồi đến bi kịch của Hòa, “một cô gái đẹp người, đẹp nết luôn mang trong mình khát khao yêu đương cháy bỏng với Chơn nhưng cuối cùng lại kết hôn với Minh nhưng cuộc sống vợ chồng họ không hạnh phúc” [trang 282].

Rồi đến anh chàng Nhâm bị Huệ - một người đàn bà đã có chồng con, lường gạt để chung sống nhưng không có giấy đăng kí kết hôn như nên ngôi nhà mà Nhâm ki cóp mãi mới có đã thuộc về quyền sỡ hữu của Huệ. Nhâm trở thành kẻ trắng tay. “Cái mĩ nhân kế ấy nhằm đến đích mua một ngôi nhà. Và ngôi nhà ấy mang tên Huệ là chủ sỡ hữu. Nhâm không thể đứng tên hoặc đồng đứng tên bởi một lẽ giản đơn Nhâm không có hộ khẩu lại không có đăng kí kết hôn” [trang 264].

Tình cảm của con người bị can thiệp thô bạo của ý thức chính trị. Trong đoạn Mơ nói với Cương sau một hồi lên lớp cho Cương về một loạt kiến thức chính trị. Một câu nói mang tính mệnh lệnh, chính trị gay gắt “Nào! Ta sinh hoạt nào anh” [trang 59]. Một câu nói giống như một gáo nước lạnh làm cho Cương chết lặng. Mọi đam mê, khát vọng yêu đương đã bị dập tắt hoàn toàn.

Bi kịch của con người cá nhân trong Biển và chim bói cá còn thể hiện trong sự bế tắc khát vọng không giải phóng được. Đây là một hệ lụy của tư tưởng trên ép dưới, lớn ép nhỏ dường như đã trở thành căn bệnh trong xã hội mà đồng tiền trở thành chìa khóa vạn năng. Họ là những con người suốt đời cống hiến cho khoa học, cho xã hội, làm việc hết mình thì sống nghèo khổ còn kẻ ăn chơi, dốt nát được nâng đỡ thì sống phong lưu. Đạt là một nhà khoa học, đang nghiên cứu về tôm đông lạnh nhưng dường như cuộc sống của anh thật khó khăn, anh giống như một trí thức nghèo coi khoa học là một món ăn tinh thần. Anh vận trên người toàn là những thứ bao cấp ngày xưa “cái mũ len đan hết tuyết xác xơ có lưỡi trai và có thể trùm xuống tới cổ, áo vét tông cũ nhàu, cái áo len màu tím thân xác xơ như cái mũ, đôi dày đen có cổ từ đời nảo đời nào mà người ta vẫn gọi là dày Cô xư ghin. Râu ria lởm chởm, da mặt xám ngả vàng, xách cái túi giả da hai quai chéo đã sờn màu lộ cốt vải luôm nhuôm” Cũng cái hình thức bên ngoài đó đã khiến cho người ta không mấy thiện cảm khi tiếp đãi anh. Và cái khát vọng được cống hiến cho khoa học, ước muốn được trở thành một người thành đạt đã bị dập tắt khi người ta không còn muốn nói chuyện với một người “khố rách áo ôm” như anh.

Tồn tại trong xã hội quan liêu bao cấp, những con người cùn mằn, tội nghiệp luôn bị áp bức về tinh thần. Họ bị áp bức từ bộ máy, cơ chế, từ những người có quyền lực. Họ nơm nớp lo sợ bị đuổi việc, bị chuyển chỗ làm. Chỉ cần sếp “chuyến này có sự thay đổi về nhân lực” là “ai cũng lo sắm sửa tiền đến biếu sếp” [trang 307]. Hay như cha con Thuyền, kiếm không đủ sống bằng nghề sản xuất dép nhựa nhưng luôn bị hạnh họe bởi các ông phòng thuế, bị đe dọa bởi các ông công an. “Như vậy lại phải đút lót” [trang 322]. Đây là một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Cái tư tưởng trên ép dưới, lớn ép nhỏ dường như đã trở thành căn bệnh đó là một bất cập thấy rõ trong xã hội mà đồng tiền và quyền lực trở thành chìa khóa vạn năng.

Biển và chim bói cá không triển khai bi kịch bằng xung đột gay gắt, các tình tiết không giàu kịch tính nhưng với những gì diễn ra tưởng như bình lặng trong cuộc sống đã giúp cho người đọc hiểu được những góc khuất trong đời sống con người và nguyên nhân nào đã đẩy con người đến tình trạng ấy.

Với 18 năm kinh nghiệm và lòng tận tâm, chúng tôi cam đoan cho ra đời những luận văn đạt chất lượng tốt và giá cả phải chăng. Nếu bạn không có thời gian làm luận văn, thời gian làm bài của bạn không đủ. Đừng ngần ngại hãy liên hệ ngay với chúng tôi, để chúng tôi giúp bạn.

Xem thêm:

Luận văn Bi kịch của tầng lớp quý tộc qua tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần và “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh.

Bi kịch cộng đồng trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

DỊCH VỤ LIÊN QUAN

    HỔ TRỢ TRỰC TUYẾN

  • VIẾT LUẬN VĂN, LÀM LUẬN VĂN THUÊ GIÁ RẺ 0942.031.664
  • VIẾT LUẬN VĂN, LÀM LUẬN VĂN THUÊ GIÁ RẺ

    hotroluanvan2003@gmail.com

chia sẽ facebook chia sẽ google chia sẽ likedin chia sẽ twitter chia sẽ twitter chia sẽ zingme